Trong cuốn "Vũ Trung tuỳ bút" của Phạm
Đình Hổ, ông kể: Thời Lê mạt, người ta đồn là ông Nguyễn Hoãn, khi đi
thi tiến sĩ, bài văn sách là do bài của sáu văn sĩ làm giúp cho trước.
Lời đồn kể rằng vì thuở ấy bố ông Nguyễn Hoãn, là Phong quận công Hiệu
đang làm Tham tụng (nghĩa là Tể tướng), quyền to, các quan khác đều sợ.
Khi ấy có một ông quan bị khiển trách, phải bãi chức. Một hôm, ông này
được triệu vào tướng phủ, nhưng ngồi đợi lâu ở nhà trong mà không được
yết kiến.
Ngồi mãi, không có gì làm, ông ta chợt
thấy trên kỷ có một đầu đề văn sách, mở ra xem đọc đi đọc lại thuộc hết
cả. Suốt ngày được kẻ hầu người hạ khoản đãi rất tử tế, đến chiều ra về
mà vẫn không thấy quan Tham tụng hỏi đến, không hiểu ra sao. Đến khi
phủ chúa (chúa Trịnh) triệu tập các quan văn thần vào soạn đề thi, thì
ông quan ấy cũng được triệu vào, ông ta liền đề nghị cái đầu đề văn sách
đọc được bữa trước trong tướng phủ. Khoa ấy, ông Nguyễn Hoãn đỗ Hội
nguyên.
Sau, ông Nguyễn Hoãn lần lượt được giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền, làm tới Thái phó, tước quận công.
Ngày xưa, người ta cũng biết ngượng,
nên gian lận thi cử cũng còn giấu giếm làm lén. Ngày nay là thời kinh tế
thị trường, đại trà ồ ạt, tôi ở xa không biết tình hình số liệu thực sự
như thế nào?
Ảnh thí sinh chép bài thi môn Hóa tốt nghiệp 2012 tại Hội đồng thi Đồi Ngô (Lục Nam, Bắc Giang) |
Câu chuyện thứ sáu: Học trò nghèo và cơ hội học hành
Trong cuốn "Quốc văn giáo khoa thư"
lớp sở đẳng, có chuyện ông Châu Trí: thuở trẻ ông học giỏi, nhưng nhà
nghèo, phải đến ở nhờ chùa Long Tuyền; không có tiền mua dầu thắp đèn,
phải đi quét lá đa, tối đốt lửa mà học. Đến khi đỗ giải nguyên, thiên hạ
mừng tặng ông bài thơ:
Một anh trò kiết chùa Long Tuyền,
Ai ngờ nay lại đỗ giải nguyên.
Ở đời không có việc gì khó,
Người ta lập chí phải nên kiên.
Đó là ngày xưa, bên cạnh những chuyện
lem nhem như chuyện ông Nguyễn Hoãn vừa kể trên, xã hội rất trọng những
người nhà nghèo, có ý chí vươn lên.
Còn ngày nay, thì sao? Có những học
sinh, sinh viên nghèo, sống trong cảnh rất khó khăn, nhưng vẫn cố gắng
học hành nghiêm chỉnh; khi ra trường, vào đời, có được sử dụng "ngang
tầm" với con cháu các "đại gia" không?
Câu chuyện thứ bảy: Bệnh xã hội và phong trào "nói không"
Cuốn "Cổ học tinh hoa" của Nguyễn Văn
Ngọc và Trần Lê Nhân, dẫn Liệt nữ truyện: Tương truyền Mạnh Tử, thuở nhỏ
mồ côi cha sớm, mẹ nuôi dạy rất nghiêm túc. Nhà ở gần nghĩa địa, thấy
người ta đào chôn lăn khóc, về nhà cũng bắt chước đào chôn lăn khóc; bà
mẹ thấy thế, nói: "Chỗ này không phải chỗ con ta ở được"; rồi dọn nhà ra
gần chợ.
Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người ta buôn
bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước đùa buôn bán điên đảo: bà mẹ lại
nói: "Chỗ này cũng không phải chỗ con ta ở được"; bèn dọn nhà đến ở gần
trường học. Mạnh Tử ở gần trường, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép,
sách vở, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép, sách vở; bấy giờ bà mẹ
mới vui lòng nói: "Chỗ này là chỗ con ta ở được đây".
Sau Mạnh Tử trở thành nhà hiền triết
lớn. Đấy là chuyện Tàu. Còn người xưa nước ta thì có câu: "Gần mực thì
đen, gần đèn thì sáng", cũng để nói ảnh hưởng rất lớn của môi trường xã
hội đối với giáo dục đạo đức con người.
Ngày nay, ngoài xã hội có nhiều chuyện
đảo điên, mà trong trường học cũng có chuyện đảo điên. Vậy thì "nói
không" với những gì và áp dụng "nói không" với biện pháp nào, để cho có
hiệu quả?
Câu chuyện thứ tám: Đọc chữ người và quyết sách
Trong cuốn "Lều chõng", tác giả Ngô
Tất Tố có viết trong chương 5, câu chuyện này (tôi tóm tắt): Cụ Nguyễn
Công Hoàn là bậc danh sĩ đời Lê, văn hay, học rất uẩn súc, nhưng thi mãi
không đỗ. Ông Nguyễn Công Lân là con, sức học tuy còn kém cụ rất xa,
nhưng mà văn chương hoạt bát, ngoài hai mươi tuổi đã đỗ hương cống, rồi
lại đỗ luôn tiến sĩ. Có một khoa, ông Lân đã làm chủ khảo, cụ Hoàn vẫn
còn cắp quyển đi thi, và cũng lại hỏng như trước.
Thế rồi đến khi việc trường đã xong,
ông Lân về nhà thăm cha. Đầu tiên, cụ hỏi ngay: "Khoa này có được quyển
nào khá không?". Ông con ngay thật thưa rằng: "Có một quyển khá, chỉ vì
phải câu tứ lục thất niêm, không thể lấy đỗ". Cụ Nguyễn liền gặng: "Câu
tứ lục ấy thế nào? Có nhớ không?". Ông con thưa rằng có nhớ và đọc như
vầy: "Lưu hành chi hóa tự tây đông, nam bắc vô tư bất phụ/ Tạo tựu chi
công tự Cảo Mân, Kỳ Phong dĩ mạc bất hưng".
Rồi thì ông ấy lại tiếc ngậm ngùi mà
rằng: "Nếu như câu dưới, họ đảo hai chữ "Cảo Mân" ra làm "Mân Cảo", cho
đúng niêm luật, thì hai câu ấy hay biết chừng nào". Cụ Hoàn không đợi
cho con hết lời, vác gậy phang luôn chừng vài chục gậy. Và cụ nghiến
răng nghiến lợi, chửi mắng tàn nhẫn. Cụ bảo ông con dốt nát như thế mà
đi chấm trường, chôn sống biết bao nhiêu người.... Thì ra hai câu tứ lục
ấy chính là của cụ, ý cụ đặt như thế này: "Lưu hành chi hóa tự Tây,
Đông Nam Bắc vô tư bất phục/ Tạo tựu chi công tự Cảo, Mân Kỳ Phong dĩ
mạc bất hưng".
Chữ Nho vốn không có dấu phẩy. Trong
hai câu đó, câu trên tất phải ngắt đến chữ "Tây", câu dưới tất phải ngắt
đến chữ "Cảo". Chứ nếu ngắt như kiểu ông Lân, một đằng ngắt đến chứ
"Đông", một đằng ngắt đến chữ "Mân" thì không có nghĩa gì cả.
Bởi vì nhà Chu khởi ở phương Tây, đóng
kẻ chợ ở đất Cảo, người ta chỉ có thể nói: "Cái thói trôi đi nổi tự
phương Tây, các phương Đông Nam Bắc đâu đâu cũng phục. Cái công đắp dựng
gây từ xứ Cảo, các xứ Mân Kỳ Phong đều cũng dấy theo".
Chứ ai lại nói: "Cái thói trôi đi nổi
tự phương Tây phương Đông... cái công đắp dựng gây từ xứ Cảo, xứ Mân?".
Nhưng vì bốn chữ Tây Đông Nam Bắc và bốn chữ Cảo Mân Kỳ Phong đặt liền
với nhau, nếu câu trên ngắt đến chữ Đông, thì câu dưới cũng lại ngắt đến
chữ Mân, như thế, chẳng những thất niêm mà còn vô nghĩa nữa!
Ngày nay, phải chăng cũng có những
người, tuy đã được học hành tương đối nghiêm túc, nhưng đọc văn bản, tài
liệu của người khác, của nơi khác, của nước khác, rồi dễ dàng ngỡ là
mình hiểu mà kỳ thật ra không hiểu; và từ đó có thể có những quyết định
mang lại tai hại khôn lường?
Câu chuyện cuối cùng: Dạy khỉ và mục tiêu ĐH Top 20
Có câu chuyện cổ tích: Người hầu già
của một ông vua già xin vua trao vàng cho mình để cất công dạy cho một
con khỉ lớn tập nói và cả quyết rằng sẽ dạy được khỉ biết nói. Vua hỏi
bao lâu thì khỉ nói được, người hầu nói phải mươi năm. Vua trao vàng cho
y, để đài thọ y dạy khỉ. Câu chuyện không kết luận, nhưng người nghe
chuyện, tất nhiên hiểu khỉ sẽ không bao giờ biết nói, và người khờ không
phải là người hầu, y hẳn ước đoán rằng mươi năm thì khỉ và người đều đã
chết. Lẽ ra nhà vua phải biết mục tiêu có khả thi hay không.
Kết luận có thể rút ra là những tác
giả các đề án hoành tráng ngày nay, định mốc "đến năm 2020, đến năm hai
nghìn bao nhiêu đó thì sẽ có thế này thế nọ", và những vị hạ bút ký chấp
nhận và cho giải ngân, liệu đến thời gian đó còn ngồi đó để nhận trách
nhiệm của mình không, hay các vị cùng thân nhân sẽ đang phơi phới ngao
du nơi Bồng Lai tiên đảo nào đó, kệ cho nhóm hậu sinh "sống chết mặc
bay"?
Hiện nay, trong Giáo dục Đào tạo có
nhiều bất cập, một số giải pháp đưa ra lại cũng bất cập, càng gây ra sự
hoang mang. Vậy mà trong giới quan chức hay trong quần chúng, vẫn có
người chấp nhận, bảo vệ. Chấp nhận vì ngây thơ không biết, hay là biết
nhưng giả bộ ngây thơ?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét