Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

Việt Nam: 80% giáo sư chưa xứng tầm quốc tế

Ở Việt Nam, có nhiều người mang chức danh giáo sư và phó giáo sư không có liên quan đến một trường nào, vì chức danh này là một phẩm hàm. Như những năm trước, một số lớn những người được tiến phong chức danh GS/PGS là những người làm việc hành chính, quản lí, không liên quan gì đến giảng dạy đại học (ĐH) hay làm nghiên cứu khoa học (NCKH).
Giáo sư, Phó GS làm việc trong...các cơ  quan hành chính?
Hôm 18/11 vừa qua, Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước (HĐCDGSNN) vừa công bố danh sách các nhà khoa bảng Việt Nam mới được phong chức danh giáo sư (65 người) và phó giáo sư (641 người). Đây là đợt xét phong cho cả 2 năm 2008 và 2009. So sánh với kết quả của những năm trước do tôi thu thập qua báo chí và các phương tiện khác, tôi thấy có một vài xu hướng đáng chú ý:
Thứ nhất, số lượng GS, PGS được phong tăng đáng kể trong vòng 5 năm qua. Nhìn qua bảng 1 dưới đây, chúng ta thấy so với năm 2005, số GS được xét phong tăng nhanh trong 2 năm 2007 (tăng 32%) và 2008-2009 (tăng 58%). Số PGS được xét phong vào năm cũng tăng vọt và nhanh hơn tỉ lệ trong nhóm GS.  Chẳng hạn như số người được phong chức danh GS/PGS tăng hơn 2 lần so với năm 2005.
Bảng 1: Số GS và PGS được phong từ năm 2005 đến nay
Năm
Số GS và PGS
Phần trăm tăng so với 2005
GS
PGS
GS
PGS
2005
41
312


2006
44
411
7.3
31.7
2007
54
445
31.7
42.6
2008 và 2009
65
641
58.5
105.4
Nguồn: 2005, 2006, 2007, 2008-9
Thứ hai, số GS, PGS ngành y chiếm đa số. Trong số 706 GS và PGS được phong năm 2008-2009, có đến 21% (n = 148) là những người làm việc ngành y sinh học. Cần ghi nhận thêm rằng trong tổng số ấn phẩm khoa học được công bố trên các tập san quốc tế, ngành y sinh học có số lượng cao nhất (chiếm gần 25% tổng số) so với các ngành khác như toán, vật lí, hóa học, hay nông nghiệp mỗi ngành chỉ chiếm khoảng 10-12%.
Những ngành khác cũng có nhiều GS và PGS được xét phong là: kinh tế (n=87 người, 12%), khoa học tự nhiên (n=81, 1%), hóa học (n=35, 5%), nông học (n=27, 4%), vật lí (n=24, 3.4%), thủy lợi (n=21, 3%), triết học (n=20, 2.8%), và chính trị học (n=14, 2%).
Qui trình và tiêu chuẩn đề bạt chức danh GS/PGS ở Việt Nam tồn tại nhiều
chuẩn  bất hợp lí (Ảnh minh họa)
Có lẽ điều hơi ngạc nhiên là ngành thủy lợi có khá nhiều GS. Trong số 21 người được phong GS và PGS ngành thủy lợi, có gần 1/3 là GS.  Tỉ lệ GS trong ngành thủy lợi được ghi nhận là cao nhất trong các ngành.  Đối với các ngành khác như y sinh học, toán, vật lí, kinh tế, v.v... tỉ lệ GS (trên tổng số GS/PGS) chỉ dao động trong khoảng 15-20%.  Qua những tai tiếng về những đập thủy lợi "chết người" gần đây, điều này cũng làm tôi ngạc nhiên, nhưng không loại trừ khả năng đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Thứ ba là độ tuổi trung bình tương đối cao so với các nước khác. Tuổi trung bình của GS Việt Nam (trong đợt phong năm 2008-2009) là 57 (thấp nhất là 45 và cao nhất là 69). Các PGS có độ tuổi tương đối trẻ hơn: Trung bình 50 (thấp nhất 32 và cao nhất 71). Ở Mỹ theo thống kê thì tuổi trung bình của GS (full professor) là 55; rất ít ai được đề bạt chức danh này trước độ tuổi 40. Một thống kê ở Australia cho thấy năm 1982, tuổi trung bình của GS là 52, PGS và "reader" (thấp hơn chức danh "associate professor" hay PGS một bậc) là 48, senior lecturer 43, và lecturer 37 [1]. Như vậy, so với các đồng nghiệp tại các nước tiên tiến, tuổi trung bình của GS và PGS Việt Nam tương đối cao hơn.

Thứ tư, chức danh GS/PGS ở Việt Nam vẫn là một loại phẩm hàm. Ở các nước trong vùng hay phương Tây, chức danh GS/PGS thường gắn liền với một trường ĐH. Chẳng hạn như ở các viện nghiên cứu y khoa của Australia, có nhiều người với chức danh GS hay PGS nhưng đó là những chức danh do trường ĐH cấp vì họ có đóng góp về nghiên cứu và giảng dạy cho trường.  Thật ra, hầu hết những viện nghiên cứu y khoa lởn ở Australia đều có kết hợp đào tạo với một trường ĐH. Còn ở Việt Nam, có nhiều người mang chức danh GS/PGS, nhưng không có liên quan đến một trường nào. Cũng như những năm trước đây, một số lớn những người được tiến phong chức danh GS/PGS năm nay là những người làm việc trong các cơ quan hành chính, quản lí, không liên quan gì đến giảng dạy ĐH hay làm NCKH. Chẳng hạn như năm nay, trong số 148 người được phong hàm GS, PGS thuộc ngành y sinh học, có ít nhất 3 người là cán bộ cao cấp của Bộ Y tế.
Vấn đề GS/PGS như là một phẩm hàm (thay vì là một chức danh / chức vụ gắn liền với một ĐH) đã được đề cập đến nhiều lần trong quá khứ như là một điểm "không giống ai" nhằm cải cách hệ thống đề bạt chức danh GS, nhưng hình như cho đến nay vẫn chưa có gì thay đổi. Hệ quả là trong khi chúng ta có 376 trường ĐH và cao đẳng (con số có thể vẫn còn tăng), nhưng chỉ có 330 GS và PGS (tức chỉ 4.7% tổng số GS/PGS trên cả nước) đang làm nhiệm vụ giảng dạy. Có trường thậm chí chẳng có một ai có chức danh GS/PGS!  Đó là một điều bất bình thường!

Thứ năm là cách tính điểm còn bất cập, chưa hợp lí. Một trong những tiêu chuẩn để được phong chức danh (hay hàm) GS/PGS là có thành tích trong NCKH, thể hiện qua số lượng ấn phẩm khoa học đã được công bố trên các tạp chí khoa học. Nhưng vì có quá nhiều tạp chí và chất lượng các tạp chí rất khác nhau, nên Hội đồng chức danh GS Nhà nước (HĐCDGSNN) chỉ công nhận một số tạp chí cho từng ngành.
Điểm qua danh sách các tạp chí trong ngành y mà HĐCDGSNN công nhận và tính điểm tôi thấy tương đối bất hợp lí.  Trong số 56 tạp chí y sinh học trong nước được tính điểm, HĐCDGSNN chia thành 3 nhóm: nhóm I gồm những tạp chí có điểm từ 0 đến 0,5; nhóm II có điểm từ 0 đên,75; và nhóm III từ 0 đến 1.  Nói cách khác một bài báo trên các tạp chí này có thể có điểm từ 0 đến 1. Không rõ cách xác định điểm như thế nào mà lại dao động từ 0 (tức là có bài báo không có điểm gì cả).
Điều bất cập lớn nhất là cách tính điểm các tạp chí khoa học nước ngoài. HĐCDGSNN chia các tạp chí khoa học nước ngoài (trong ngành y học) thành 2 nhóm: Nhóm có hệ số ảnh hưởng 2 hay thấp hơn có điểm từ 0 đến 1; nhóm có hệ số ảnh hưởng (impact factor) trên 2 có điểm từ 0 đến 2.
Với cách tính điểm đó, một bài báo trên tập san như Science, Nature, New England Journal of Medicine, JAMA, hay Lancet (những tạp chí khoa học đứng vào hàng số 1 trên thế giới) chỉ cao hơn 1 điểm so với một bài báo trên Nghiên cứu Y học hay Y học TP. Hồ Chí Minh!
Cần nói thêm rằng, các công trình trên các tạp chí như Science, Nature, Cell là những công trình đẳng cấp giải Nobel.  Những tạp chí y sinh học trong nước như Nghiên cứu Y học hay Y học TP. Hồ Chí Minh không thể nào so sánh chất lượng với một tạp chí chuyên ngành của Mỹ hay châu Âu  chứ chưa nói so sánh với Science, nature , new England Journal of Medicine, hay JAMA.
Thật ra, không có một tạp chí khoa học nào của Việt Nam được cộng đồng khoa học quốc tế công nhận.  Do đó, tôi e rằng chẳng những cách tính điểm như thế thật là vô lí và không công bằng, mà còn làm nản lòng những ai phấn đấu công bố quốc tế.
Chúng ta có không ít GS/PGS  có khả năng tương xứng với đồng nghiệp quốc tế,
nhưng rất tiếc là cơ chế hiện nay chưa phát hiện họ (Ảnh minh họa)
Chúng ta đang ở đâu trên thế giới?
Với cách tính điểm như trên, nhiều người vẫn lo ngại về "chất lượng" của GS Việt Nam, bởi vì làm GS/PGS mà thiếu những công trình công bố quốc tế (hay có nhưng quá "mỏng") thì không mấy hợp lí.  Tưởng cần nhắc lại rằng một thước đo mà các ĐH trên thế giới thường sử dụng để đánh giá và xét đề bạt chức danh GS là chỉ số H [2].  Thông thường một GS ở trường ĐH có uy tín cao thường có chỉ số H khoảng 20, và PGS khoảng 10. Ở Việt Nam, rất hiếm có GS hay PGS nào có chỉ số H trên 12, vì công bố quốc tế chưa được khuyến khích tốt và chưa được xem là tiêu chuẩn quan trọng số 1 trong việc công nhận chức danh khoa bảng.
Theo thống kê, tính từ năm 1980 (lần đầu tiên phong hàm GS/PGS) đến nay, nước ta đã công nhận 1336 GS và 7062 PGS.  Với tiêu chuẩn phong chức danh GS/PGS còn bất cập như trên, câu hỏi đặt ra là trong số này có bao nhiêu xứng đáng với chức danh đó. Cách đây không lâu, GS Hoàng Tụy có phát biểu rằng chỉ có 20% GS/PGS ở Việt Nam là xứng đáng với chức danh GS/PGS theo chuẩn mực quốc tế [3]

Cần cải cách!
Nói tóm lại, qui trình và tiêu chuẩn đề bạt chức danh GS/PGS ở Việt Nam đã có cải tiến đáng kể trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều chuẩn bất hợp lí và chưa theo kịp xu hướng phát triển khoa học trên thế giới.
Tôi nghĩ trong quá trình đưa giáo dục ĐH nước ta hội nhập thế giới, chúng ta cần nên xem xét và tham khảo các chuẩn mực về chức danh GS/PGS trên thế giới để đi đến một hệ thống đề bạt hoàn chỉnh hơn. Cần phải đặt tiêu chuẩn NCKH qua công bố quốc tế (như chỉ số H) là tiêu chuẩn hàng đầu trong việc xét phong hay đề bạt chức danh khoa bảng. Ở nước ngoài, các hội đồng khoa bảng thường yêu cầu ứng viên chỉ ra cụ thể là họ tương đương với ai trên thế giới và người đó có chỉ số H bao nhiêu.  Đó cũng là một hình thức khách quan để nâng cao tính quốc tế của các GS/PGS.
Có lẽ việc đầu tiên cần làm là nên xem chức danh GS/PGS là một chức vụ khoa bảng dành cho những người giảng dạy ĐH và NCKH, và do đó, chức danh này phải gắn liền với một ĐH.  Cũng có thể tạo ra một chức danh mới, như GS danh dự (honorary professor) chẳng hạn, dành cho các cán bộ và quan chức có nhiều đóng góp cho khoa học về mặt hành chính hay quản lí, hay một chức danh như "GS kiêm nhiệm" ("conjoint professor") cho các bác sĩ và nhà khoa học hội đủ điều kiện nhưng không trực tiếp giảng dạy ĐH.  Nhưng cần phải phân biệt rõ ràng những chức danh GS thực thụ với GS danh dự hay GS kiêm nhiệm.
Xã hội có quyền đặt kì vọng cao vào những nhà khoa học mang chức danh GS/PGS, bởi vì họ là một phần của bộ mặt của khoa học Việt Nam. Người dân muốn thấy những người mang hàm GS/PGS phải có khả năng tương xứng với đồng nghiệp quốc tế.  Chúng ta có không ít những GS/PGS như thế, nhưng rất tiếc là cơ chế hiện nay chưa phát hiện họ.  Do đó, tôi nghĩ chúng ta cần phải tạo ra một cơ chế khách quan hơn, bình đẳng hơn, và khoa học hơn để ghi nhận sự đóng góp của những nhà khoa học đang âm thầm làm rạng danh nước nhà.

Công ty gia sư Easy-learn gồm những đội ngũ gia sư chất lượng cao bao gồm Gia sư bách khoaGia sư toángia sư tiếng anh Cam kết mang lại kết quả học tập hoàn hảo cho con em bạn Liên Hệ Mr Tú 0946.486.568 Mr Quỳnh 0902 898 383 

Top 10 Đại học có nhiều giảng viên nổi tiếng nhất

American University


Không có gì phải ngạc nhiên khi American University, ngôi trường nằm ở thủ đô của nước Mỹ, có đội ngũ giảng viên là những nhân vật nổi tiếng trên chính trường. Trường này có Ralph Nader - ứng viên 5 cuộc chạy đua Tổng thống của Đảng Xanh, Joe Clark – Thủ tướng thứ 16 của Canada và Jackie Norris – cựu chánh văn phòng của bà Michelle Obama.

ĐH Texas, Austin

Thành phố Austin thường được xem là tâm điểm sang trọng của bang Texas, và ĐH Texas tất nhiên cũng góp phần vào sự ấn tượng đó bằng cách thu hút cho mình những giảng viên tên tuổi nhất.

Đối với những SV học ngành khoa học, họ sẽ được giảng dạy bởi Steven Weinberg – nhà vật lý từng đạt giải Nobel với công trình nghiên cứu về hạt cơ bản, Robert Metcalfe – giáo sư Kỹ thuật điện (người phát minh ra Ethernet và thành lập nhà sản xuất điện 3Com), James K. Galbraith – nhà kinh tế nổi tiếng từng là giám đốc điều hành của Uỷ ban Kinh tế cổ phần của Quốc hội.

Về lĩnh vực nghệ thuật, trường này có Nancy Schiesari – người đã sản xuất ra những bộ phim tài liệu cho PBS và BBC.

ĐH Boston

ĐH Boston là một ngôi trường danh tiếng, nhưng là một trong số những viện đại học thuộc khu vực Boston, trường này có nguy cơ bị lu mờ bởi những đối thủ nặng kí như Harvard và MIT. Tuy nhiên, Boston đã trang bị cho mình một đội ngũ giảng viên ấn tượng để đánh bật các tên tuổi khác.

Ở khoa Viết sáng tạo, trường có Robert Pinsky – nhà thơ từng được đề cử giải Pulitzer. Ở Trường đào tạo Báo chí, Boston có cựu nhà báo của ABC Robert Zelnick – người từng đạt giải Emmy. Ngoài ra, Boston còn có những tên tuổi khác như nhà văn Elie Wiesel.

ĐH Yale

Yale cũng nằm trong danh sách những trường có đội ngũ giảng viên được quốc tế công nhận. Khoa Lịch sử có John Lewis Gaddis – nhà lịch sử học từng đạt giải Pulitzer nhờ viết tiểu sử cho chính khách George F. Kennan. Khoa Hóa học có Sidney Altman – nhà sinh học phân tử từng đạt giải Nobel Hóa học vào năm 1989. Trung tâm Nghiên cứu Toàn cầu hóa của Yale có giáo sư Emesto Zedillo – cựu Tổng thống Mexico.

ĐH Stanford

Stanford được nhiều người xem là “Harvard của bờ biển phía Tây”, trong đó một trong số các giảng viên là cựu Bộ trưởng Ngoại giao Condoleeza Rice – giáo sư Kinh tế chính trị. Hiện tại, trường có 17 giảng viên từng đạt giải Nobel, 4 giảng viên đạt giải Pulitzer và nhiều giảng viên xuất sắc khác.

ĐH Harvard

Không thể phủ nhận một điều rằng Harvard là một trong số những tên tuổi được biết đến nhiều nhất trên thế giới, vì thế một đội ngũ giảng viên ấn tượng cũng không phải là điều khó hiểu ở ngôi trường này. Trong số đó có nhà bình luận chính trị kiêm luật sư quốc phòng Alan Dershowitz – giảng viên môn Luật. Lawrence Lessig – nhà hoạt động chính trị và Henry Louis Gates – giám đốc Viện Văn hóa Châu Phi và Mỹ Phi W.E.B Du Bois cũng là 2 trong số những giảng viên có tiếng của trường này.

ĐH Virginia

Được đánh giá là một trong những đại học công danh giá nhất nước Mỹ, Virginia có những giảng viên nổi tiếng ở các lĩnh vực như Viết sáng tạo, Khoa học y tế. Ở lĩnh vực văn học, trường có cả tiểu thuyết gia Ann Beattie và nhà thơ, người đạt giải Pultitzer Charles Wright. Ngoài ra, trường có Barry Marshall – người giành giải Nobel Y học vào năm 2005.

ĐH Pennsylvania


Penn từ lâu đã có tiếng là một ngôi trường tiệc tùng với các hoạt động thể thao, văn hóa sôi động, tuy nhiên các tiêu chuẩn học thuật của trường này cũng xuất sắc không kém. Đội ngũ giảng viên của Penn có nhà khí hậu học nổi tiếng Micael E. Mann và đôi khi Penn cũng là “nhà” của giáo sư thỉnh giảng Sir Roger Penrose. Bên cạnh danh hiệu Hiệp sĩ đã quá đủ ấn tượng, Sir Penrose còn từng giành giải Wolf Vật lý cùng Stephen Hawking vào năm 1988. Ngoài ra, ông còn nhận được huy chương Dirac vào năm 1989 và huy chương Copley năm 2008 nhờ những công trình nghiên cứu về vật lý toán học.

ĐH Colorado

Colorado tuyên bố có 2 giảng viên hàng đầu thế giới trong lĩnh vực Vật lý: Eric Allin Cornell và John Hall. Cả hai đều từng đạt giải Nobel.

Công ty gia sư Easy-learn gồm những đội ngũ gia sư chất lượng cao bao gồm Gia sư bách khoaGia sư toángia sư tiếng anh Cam kết mang lại kết quả học tập hoàn hảo cho con em bạn Liên Hệ Mr Tú 0946.486.568 Mr Quỳnh 0902 898 383 

Xem phim 3D không cần kính




Khán giả sắp có thể thưởng thức những tuyệt phẩm 3D mà không cần tới cặp kính phân cực phiền toái.

Phim 3D đã tạo ra được những cơn sốt trong công chúng yêu thích điện ảnh, nhưng có trở ngại trong việc xem phim 3D là khán giả luôn phải đeo kính phân cực và dễ cảm thấy mệt mỏi. Nhưng công nghệ hiển thị 3D mới được nghiên cứu bởi một nhóm các nhà khoa học Hàn Quốc đã giải quyết được vấn đề này. Kết quả của nghiên cứu quang học này mới được công bố và được cho là sử dụng ít không gian hơn và rẻ hơn so với công nghệ chiếu 3D hiện nay.
Theo Daily Mail, trưởng nhóm nghiên cứu Byoung Lee, giáo sư tại Trường Kỹ Thuật Điện tử, Đại học Quốc gi Seoul cho biết: “Trong vòng 10 năm qua, đã có nhiều tiến bộ trong việc cải thiện trải nghiệm của người xem phim 3D. Chúng tôi muốn đưa trải nghiệm này lên một bước tiến xa hơn để có một cách tiếp cận đơn giản, nhỏ gọn và tiết kiệm về chi phí để phổ biến các rạp chiếu phim 3D, đồng thời cũng loại bỏ việc phải đeo kính phân cực.”
Với công nghệ 3D hiện có, các rạp chiếu phim 3D sử dụng hai máy chiếu hiển thị hai hình ảnh tương tự, chiếu đồng thời trên một màn hình duy nhất. Bằng cách đeo mắt kính phân cực, khán giả có được những hình ảnh 3D chân thực.
Nhóm nghiên cứu Hàn Quốc đã phát triển một phương pháp mới để có được những trải nghiệm 3D khi sử dụng  duy nhất một máy chiếu và một màn hình. Những kết quả thực nghiệm cũng cho thấy phương pháp này khá khả quan, có thể được sử dụng với tỉ lệ thành công cao.
Giáo sư Lee cho biết: “Chúng tôi tin rằng phương pháp này có thể hữu ích trong việc phát triển thế hệ tiếp theo của rạp chiếu phim 3D.” Mặc dù có kết quả hứa hẹn như vậy, nhưng sẽ mất vài năm để công nghệ này có thể được áp dụng rộng rãi để khán giả có thể xem phim 3D mà không cần đeo kính phân cực. 

Công ty gia sư Easy-learn gồm những đội ngũ gia sư chất lượng cao bao gồm Gia sư ngoại thươngGia sư toángia sư tiếng pháp Cam kết mang lại kết quả học tập hoàn hảo cho con em bạn Liên Hệ Mr Tú 0946.486.568 Mr Quỳnh 0902 898 383 
Lấy danh nghĩa nhập cảnh sang Việt Nam để xúc tiến thương mại, nhưng hai khách người Trung Quốc lại giả nhà sư đi khất thực xin tiền tại Đà Nẵng và đã bị công an xử lý trục xuất về nước…


Sáng nay (30/8), Công an TP. Đà Nẵng cho biết đã hoàn tất các thủ tục trục xuất đưa hai công dân Trung Quốc nhập cảnh vào Đà Nẵng, Việt Nam về hành vi “Nhập cảnh có hoạt động khác tại Việt Nam mà không có sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền”.

Theo quyết định xử phạt hành chính của công an TP. Đà Nẵng, 2 công dân Trung Quốc gồm Peng Yurui và He Dechao (55 tuổi), nhập cảnh vào Việt Nam ngày 25/8 qua cửa khẩu Hữu Nghị.



Hộ chiếu của hai nhà sư giả từ Trung Quốc sang Việt Nam để khất thực xin tiền.

Sau đó, hai người đón xe từ Hà Nội vào Đà Nẵng thuê phòng khách sạn ở để đi khất thực.

Vào sáng 27/8, khi cả hai bận đồ tu hành đi khất thực tại khu vực quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng thì bị công an phát hiện và mời về cơ quan làm việc.

Khai nhận tại cơ quan công an, cả hai thừa nhận mình không phải là người tu hành. Nhưng do hết tiền nên phải mặc áo nhà chùa để đi khất thực xin tiền…?! Đến thời điểm bị phát hiện 2 người này đã xin được của người dân 1,4 triệu đồng.

Cơ quan công an tiến hành kiểm tra nơi ở của hai đối tượng và phát hiện nhiều trang phục của nhà chùa mà hai đối tượng mang theo để sử dụng.

Ngay sáng nay (30/8), công an TP. Đà Nẵng đã yêu cầu các cơ quan chức năng và đơn vị bảo lãnh là Công ty Cổ phần Xúc tiến Thương mại và Du lịch Việt Nam có trách nhiệm đưa hai người Trung Quốc này về nước.

Vũ TrungCông ty gia sư Easy-learn gồm những đội ngũ gia sư chất lượng cao bao gồm Gia sư ngoại thươngGia sư toángia sư tiếng pháp Cam kết mang lại kết quả học tập hoàn hảo cho con em bạn Liên Hệ Mr Tú 0946.486.568 Mr Quỳnh 0902 898 383

Thiếu nhạc trưởng trong nghiên cứu chủ quyền Biển Đông


Tuanvietnam xin tiếp tục giới thiệu phần 2 cuộc trao đổi giữa phóng viên Huỳnh Phan và nhà nghiên cứu thư tịch cổ Trung Hoa Phạm Hoàng Quân liên quan đến công việc nghiên cứu chủ quyền Biển Đông.
Giáo sư Vũ Minh Giang ở Đại học Quốc gia, trong bài trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn Tiếp Thị, nhân dịp Hội nghị Quốc tế về Biển Đông lần thứ nhất vào cuối tháng 11.2009, đã cho rằng Việt Nam thiếu một nhạc trưởng đối với công việc nghiên cứu vấn đề tranh chấp biển đảo, tức là mình chưa hiểu cái gì thì mình có đầy đủ rồi, cái gì mình thiếu, để tập trung và phần bổ nguồn lực nghiên cứu cho hợp lý. Có cái đủ rồi, thậm chí thừa, rồi vẫn cứ cố làm, trong khi cái thiếu thì không ai ngó cả. Như vậy, các nhà ngoại giao khi đấu tranh chủ quyền không khéo lại bất lợi.
Ý ông thế nào?
Thực ra, tôi không dám nói mạnh như các ông đó. Bởi vị thế của mình, nói ra có khi người ta không thích.
Nhưng ông có chia sẻ cái đó không?
Ông Vũ Minh Giang đánh giá vậy là đúng. Bởi cái sự nghiên cứu nó nằm tản mát ở nhiều cơ quan nhà nước, rồi các cá nhân cũng lại muốn có tên đóng góp trong sự nghiệp chung, rồi công bố đủ thứ hết.
Chẳng hạn, nhiều cái gọi là phát hiện cũng trật, bởi cái đó bản thân mình thấy muộn, chứ người khác thấy trước, thậm chí lâu rồi. Trong nền báo chí nước mình từ "phát hiện" bị lạm dụng từ lâu lắm rồi.
Vâng, dưới những cách diễn đạt khác nhau, ngoài từ phát hiện, còn có những cụm từ như "lần đầu tiên xuất hiện", hay "chuyện bây giờ mới kể". Nhiều khi chuyện đó người ta kể từ lâu rồi ấy chứ.
Trở về vấn đề anh hỏi, về việc cần có một nhạc trưởng, tôi cũng đã từng nói rồi, nhưng theo cách khác. Tôi nhấn mạnh tới việc cần phải kết tập tư liệu thành hệ thống. Và đó là chuyện của một cơ quan nhà nước lớn, chứ tư nhân đâu làm được. Vừa không có sức, vừa không đủ kinh phí.
Người chỉ đạo, mà dùng từ nhạc trưởng chuẩn hơn, có thể không nghiên cứu giỏi về một lĩnh vực nào, kiểu như nhạc công chơi giỏi một loại nhạc cụ nhất định, nhưng phải hiểu cả một dàn nhạc.
Trong trường hợp của ông, liệu có sự phối hợp nào đó giữa nghiên cứu của ông với các tổ chức nghiên cứu của nhà nước không?
Nói chung, họ chỉ tham khảo những gì tôi viết và công bố thôi. Tôi không thuộc cái ngạch của nhà nước, nên khó có điều kiện tham gia nhiều vào các dự án nghiên cứu do nhà nước tài trợ.
Tức là ông chưa có những đơn đặt hàng cụ thể về nghiên cứu?
Ảnh minh họa
Làm gì có.
Quay lại câu chuyện nhạc trưởng, hình như riêng đối với việc nghiên cứu chứng cứ lịch sử mình cũng đã thiếu một sự phối hợp như vậy, đúng không ạ?
Đúng là còn yếu quá. Chính vì vậy, tôi rất quan tâm đến việc xây dựng thư mục nghiên cứu. Gần đây, tôi có làm một bộ thư mục liệt kê tất cả các sách sử Trung Quốc, sách địa chí Trung Quốc có liên quan đến Biển Đông, để các anh em nghiên cứu tìm nó một cách dễ dàng. Thư mục này có cả danh mục địa đồ liên quan.
Tôi thống kê hết cả những cái ích lợi lẫn bất lợi cho việc chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo. Bởi, theo tôi, cả hai loại tư liệu này đều phải được nghiên cứu kỹ càng, chứ không nên chỉ chọn những thứ có lợi cho lập luận của mình.
Để mình khỏi bất ngờ khi Trung Quốc họ đưa ra những chứng cứ và lập luận ngược lại?
Đó chính là cái tôi muốn nhấn mạnh trong đường lối nghiên cứu, phải hết sức toàn diện.
Thư mục đó ông đã công bố chưa?
Tôi đã công bố phân nửa rồi, trên trang của Quỹ Nghiên cứu Biển Đông. Đó là trang nội bộ của anh em nghiên cứu, khi cần họ có thể tham khảo.
Ví dụ, một đầu sách có thể được xuất bản bao nhiêu lần cho tới nay, tôi đều phải điểm lược hết. Khi đó, những anh em nghiên cứu trên khắp thế giới người tìm được bản này, người tìm được bản kia. Có thể là ở một hiệu sách cũ ở một xứ nào đó, hay ở một thư viện cổ ở một xứ khác mà anh em nghiên cứu ở Việt Nam không thể kiếm được.
Ngay cả đối với một đầu sách, mình cũng cần phải có 5-7 bản in ở các thời điểm khác nhau.
Lý do?
Để mình đối chiếu xem học giả Trung Quốc họ dẫn ra có đúng hay không. Phải kiểm tra cho đúng, chứ đừng nên thấy họ nói rồi mở miệng cãi liền, không khéo lại hớ.
Làm thế nào để ông xây dựng một thư mục như vậy?
Tôi phải đọc rất nhiều sách của các học giả Trung Quốc. Bởi khi viết xong công trình họ phải liệt kê thư mục tham khảo. Khi mình điều tra như vậy, mình sẽ có cơ hội tìm thêm được những nguồn tư liệu mới.
Nhờ đó, tôi cũng tìm được một số sách cổ để nghiên cứu, nhưng cũng chỉ là một phần trong cái thư mục đó thôi.
Trước khi tôi đăng thư mục này, tôi đã cho đăng nhiều công trình nghiên cứu rồi. Chẳng hạn, công trình nghiên cứu về chính sử Trung Quốc, công trình nghiên cứu về địa phương chí Trung Quốc, mỗi công trình cả trăm trang, đúc kết những điều cốt lõi mà các loại tư liệu đó nêu ra.
Bản thư mục đó tôi vẫn dùng cho công việc nghiên cứu của mình cho tiện, nhưng thấy nó cũng cần thiết cho anh em khác, trước hết là những anh em chuyển ngữ từ tiếng Trung qua tiếng Anh, từ tiếng Việt qua tiếng Anh. Bởi người phương Tây họ viết tên cuốn sách đó bằng chữ phiên âm, còn người Việt mình viết bằng chữ Hán - Việt, đôi khi người ta không hiểu hai cuốn đó thực ra là một.
Tôi bổ sung tên sách theo tiếng Anh, ghi nguồn gốc xuất bản của những cuốn này, từ đời Hán đến đời Thanh khoảng 200 cuốn, và thêm khoảng 180 cái bản đồ. Điều đó giúp cho anh em đỡ mất thì giờ.
Do việc chuyển nhà nên tôi ngưng lại một chút, chắc mất vài tháng nữa mới hoàn thành xong để công bố nốt.
Khi thư mục được đăng trên Quỹ Nghiên cứu Biển Đông, phản ứng của anh em nghiên cứu khác như thế nào?
Đây là trang nội bộ, ít có người đọc. Nhưng anh em trong quỹ rất là phấn khởi. Tôi cảm giác được là trước giờ họ đang thiếu chính cái đó.
Mặc dù không đóng góp trực tiếp cho đấu tranh về chủ quyền, nhưng bản thư mục này chính là chìa khoá của nghiên cứu. Anh biết rồi đấy, cái ngành thư mục học của Việt Nam mình nó không mạnh lắm. Đối với các ngành luôn, chứ không chỉ với chuyên ngành nghiên cứu Biển Đông.
Đối với một nhà nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu chính là kim chỉ nam, quyết định thành tựu nhỏ hay lớn. Tôi tò mò không hiểu, đối với một nhà nghiên cứu độc lập, chủ yếu tự học như ông, phương pháp nghiên cứu đó của ông đã hình thành như thế nào?
Thì cũng qua tự học thôi. Tôi đọc những công trình nghiên cứu của người Nhật về Trung Quốc qua bản dịch Hán Văn. Họ là những nhà nghiên cứu thực sự chuẩn mực, sâu sát, bài bản, và hệ thống. Các học giả hiện thời của Trung Quốc rất nể trọng những công trình nghiên cứu đó. Anh biết đấy, Trung Hoa học là một vấn đề hết sức quan trọng với người Nhật.
Tôi bắt đầu nghiên cứu về Biển Đông vào năm 2005, khi bắt đầu xảy ra một số chuyện lấn cấn ở khu vực này. Tự nhiên, tôi thấy tò mò về những nghiên cứu của người Nhật liên quan đến lịch sử tổng quan của Trung Quốc. Đọc rồi, tôi thấy họ nghiên cứu theo phương pháp hay lắm, và nhận thức rằng phương pháp nghiên cứu của mình hơi bị kém.
Có lẽ, cái phương pháp mà tôi đang sử dụng để nghiên cứu đã hình thành từ đó.
Nhà nghiên cứu thư tịch cổ Trung Hoa Phạm Hoàng Quân. Ảnh: Huỳnh Phan
Tên những học giả Nhật Bản đó là gì?
Có một vài học giả nổi tiếng, sống ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, mà chưa được đề cập ở Việt Nam, như Nội Đằng Hồ Nam (Naito Konan), Đằng Điền Phong Bát (Fujita Toyohachi), Câu Tỉnh Nghĩa Minh (... Saeki), Tang Nguyên Chất Tạng, hay Ngạn Điền Ngâm Hương (Kishida Ginko) ...
Một điều nữa đáng lưu ý ở đây là cái tinh thần học thuật của người Trung Quốc cũng cao lắm. Họ thấy công trình nghiên cứu nào của Nhật đối với những vấn đề chung của lịch sử Trung Quốc mà hay là họ dịch liền sang tiếng Trung. Cũng nhờ đó mà trình độ nghiên cứu của người Trung Quốc cũng phát triển theo.
Có lẽ đây là nhược điểm của cái dân tộc mang danh là có truyền thống hiếu học như Việt Nam chúng ta?
Nói riêng về các công trình nghiên cứu, mình còn hơi bị kém. Chúng ta chưa từng dịch công trình nghiên cứu đẳng cấp nào của Trung Quốc, và, cũng vì vậy, chúng ta cũng chưa biết những nhà nghiên cứu giỏi, chuyên sâu của Trung Quốc. Chúng ta chỉ dịch sách sử phổ thông, sách văn học, hay sách tư tưởng kinh điển thôi.
Điều nguy hiểm nhất ở đây là chúng ta tự nhiên sẽ nghĩ rằng họ cũng nói khơi khơi, như trên truyền thông, chứ họ đâu có sâu sắc gì. Đâu ngờ chính cái tinh thần học thuật và trình độ nghiên cứu của người Trung Quốc phát triển rất mạnh theo những gì họ dịch ra từ công trình nghiên cứu của các học giả tài ba Nhật Bản và phương Tây.
Tôi cũng có được biết cách nghiên cứu của người Nhật có những điểm rất hay.
Chẳng hạn như Giáo sư Sakurai, người được trao giải thưởng Phan Chu Trinh năm 2009, đã đưa phương pháp nghiên cứu theo kiểu khu vực học vào Việt Nam, khi nghiên cứu tổ chức làng xã Việt Nam. Phương pháp này sau đó được các nhà nghiên cứu Việt Nam áp dụng.
Hay Giáo sư Yoshiharu Tsuboi đã đưa ra một cách nhìn nhận rất mới về triều đình nhà Nguyễn thời Vua Tự Đức. Đó là sự thất bại trong việc tổ chức kháng chiến chống Pháp, chứ không phải rắp tâm bán nước như trước đó chúng ta đánh giá.
Ông viết rằng "...Dù trong hoàn cảnh đó, Tự Đức đã kiên trì nỗ lực, chủ yếu bằng ngoại giao, nhằm cứu vãn chủ quyền."
Đó là cuốn "Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa".
Và những nguyên nhân thất bại, theo GS Tsuboi, đó là "mất lòng dân, yếu kém về kinh tế, những khó khăn chính trị và gánh nặng về di sản". Theo tôi nghĩ, sự phân tích thấu đáo và kết luận sắc sảo của bài luận văn tiến sĩ của ông, trước khi cho in thành sách, đã làm được tốt hơn cả cái vai trò đánh giá lại lịch sử một cách khách quan và biện chứng.
Vậy thì tốt quá.
Ông có cơ hội nào ngồi tranh luận với các học giả Trung Quốc không?
Tôi đọc được chữ Hán, nhưng không biết nói tiếng Hoa.
Thì qua phiên dịch?
Chưa có dịp gặp.
Chẳng hạn, ở hội thảo quốc tế Biển Đông tổ chức thường niên ở Việt Nam từ cuối năm 2009. Bên Trung Quốc họ cũng cử tới gần chục người sang chứ không ít. Ông vẫn có thể gặp họ ở đó mà. Năm nay, sẽ luân phiên tổ chức ở TP.HCM  nên cũng tiện cho ông, chỉ một cuốc xe đò, chứ không tàu bay - tàu bò tốn kém.
Nhưng mà tôi thích đọc cái mà học giả nghiêm túc của Trung Quốc viết hơn là nghe những học giả được cử đến các hội thảo để tranh luận. Bởi những người họ cử tham dự các hội thảo cũng chỉ thường thường bậc trung, gặp rồi cũng chả được ích lợi gì đâu.
Tại sao ông đánh giá họ là loại thường thường bậc trung?
Tôi đã đọc kỹ những nghiên cứu, thậm chí blog, của những học giả lừng danh của Trung Quốc, và thấy mấy ông đó không bao giờ xuất hiện tại những loại diễn đàn như vậy hết.
Còn tham luận, rồi tranh biện, của mấy ông chuyên dự hội thảo đâu phải là những nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Chủ yếu là nêu lập trường, quan điểm của chính quyền Trung Quốc về Biển Đông thôi à.
Mấy cái ông đó không đáng ngại. Cái tôi lo là nếu những người làm khoa học thầm lặng, nghiêm túc mà giở quẻ, thì mình cũng mệt đấy.
Ông có thể nêu một số cái tên được không?
Phùng Thừa Quân, Lăng Thuần Thanh, Trần Tự Kinh, hay Trần Giai Vinh. Những học giả này đều được quốc tế công nhận là những chuyên gia giỏi về Biển Đông, hay Đông Nam Á. Có điều, ba người đầu đã mất, chỉ còn Trần Giai Vinh đang rất nổi.
Điều gì tạo nên sự khác biệt giữa nhóm "nghiên cứu thầm lặng" và nhóm "sẵn sàng lớn tiếng" (tại các diễn đàn)?
Như ban nãy tôi nói với anh, mình đi tìm tòi phương pháp nghiên cứu của mấy ông "sư phụ" người Nhật, thì mấy học giả Trung Quốc thuộc nhóm "thầm lặng" cũng bị ảnh hưởng bởi mấy sư phụ đó. Ngoài ra, họ còn học được cả phương pháp nghiên cứu của phương Tây. Họ giỏi nhiều ngoại ngữ, cũng như tiếp cận được nhiều loại tư liệu.
Tức là cái hệ thống nghiên cứu của họ rất tốt, họ cũng phân loại tư liệu, như tôi nói nãy giờ, và làm việc rất bài bản. Anh tìm kẽ hở của họ mà bắt bẻ rất là khó.
Quay lại chuyện hội thảo, hãy quên đi câu chuyện tranh biện - tranh luận với nhóm học giả "lập trường - quan điểm" đó đi. Nhưng hội thảo vẫn là nơi các nhà nghiên cứu từ nhiều nước có thể trao đổi thông tin, tư liệu hữu ích. Một số học giả nước ngoài tôi gặp nói rằng họ rất thiếu thông tin về các nghiên cứu về Biển Đông của Việt Nam.
Cũng tốt thôi. Anh mời tôi nhé?
Tôi nghĩ các nhà tổ chức sẽ phải nghĩ lại, bởi điều đó rất phù hợp với chủ trương thông tin đối ngoại về chủ đề này.
Trở lại câu chuyện bị ngắt quãng, nếu như ông được yêu cầu tổ chức lại việc nghiên cứu Biển Đông cho có sự phối hợp hiệu quả nhất, ông sẽ làm thế nào?
(Cười lớn) Anh lại bị lạc đề rồi. Anh đang phỏng vấn một người nghiên cứu thư tịch cổ Trung Hoa, chứ không phải một nhà văn chuyên viết chuyện giả tưởng nha.
Sao cũng được. Nhưng tôi muốn biết ý kiến của ông.

Công ty gia sư Easy-learn gồm những đội ngũ gia sư chất lượng cao bao gồm Gia sư sư phạmGia sư lýgia sư tiếng trung Cam kết mang lại kết quả học tập hoàn hảo cho con em bạn Liên Hệ Mr Tú 0946.486.568 Mr Quỳnh 0902 898 383 

Thứ Hai, 3 tháng 9, 2012

Ước mơ chưa thành của nữ sinh tộc “ngủ ngồi”

Không đủ điểm để vào học ngành mình đã chọn, ước mơ được học lên của Hoài cũng dở dang khi Hoài không thuộc diện xét tuyển đối với thí sinh các huyện nghèo, dù em là “hạt giống” quý của bộ tộc Đan Lai, ở nơi cực kỳ khó khăn.

Dựng lều nuôi chữ

Nhà Hoài ở bản Cò Phạt (xã Môn Sơn, huyện miền núi Con Cuông, Nghệ An), trong vùng lõi Vườn quốc gia Pù Mát. Nơi đó hiện có hơn 90% hộ dân là đói, nghèo và chưa có trường THCS, chưa có điện lưới thắp sáng.

Phần lớn học sinh Đan Lai ở bản Cò Phạt học xong tiểu học tại Trường Tiểu học Môn Sơn 3 (phân hiệu dành riêng cho con em tộc người thiểu số Đan Lai) là nghỉ học ở nhà dựng vợ gả chồng.

Em La Thị Hoài - nữ sinh duy nhất của tộc người Đan Lai ước muốn học lên để trở về giúp bà con bản làng

Hoài ham học và may mắn hơn các bạn cùng bản khi hết lớp 5 em được bố mẹ cho ra trung tâm xã, dựng lều trọ học cho đến lớp 12.

Những dịp lễ, nghỉ hè, Hoài trở về bản, cùng thầy cô giáo đến từng nhà vận động dân bản cho các em ra cùng trọ học, học lên THCS. Được vận động, thuyết phục nhiều lần, bà con bản làng cũng ưng cái bụng “gửi con cho cái Hoài để nó học lên kiếm con chữ”.


Những năm qua, Hoài là “chị cả” dìu dắt gần 10 em ở bản cùng ra trọ học trong căn chòi tranh bên dòng sông Giăng. Chưa có đường bộ để về nhà, 1-2 tháng Hoài cùng các em ngược thác dữ sông Giăng bằng thuyền hoặc bè nứa về nhà một lần. Các em lấy gạo, dưa, rau, măng rừng muối ra để ăn dần.

Căn lều trọ học của các em không bàn, không giường, chỉ có manh chiếu trải lên chiếc ván làm nơi ngồi học và ngủ. Không có giếng nước, hằng ngày các em thay nhau vào nhà dân xin hoặc xuống sông Giăng lấy nước lên dùng. Do bố mẹ các em ở bản cũng thiếu đói nên không có gạo, tiền để cung cấp cho các em hằng tháng mà chỉ gửi cho ít rau, dưa. Do vậy, Hoài và các em tiết kiệm, chi tiêu từ tiền trợ cấp học sinh dân tộc thiểu số và sự cưu mang của người dân, thầy cô giáo và bộ đội biên phòng.

Dang dở ước mơ

Năm đang học lớp 10, Hoài ra thị trấn Con Cuông xin tuyển vào trường thiếu sinh quân để thực hiện ước mơ làm chiến sĩ công an. Nhưng do thường thiếu ăn nên Hoài không đủ trọng lượng và chiều cao nên bị loại.

Không nản chí, Hoài trở về căn lều trọ học, tiếp tục học tại Trường THPT Mường Quạ. Hoài thấy tủi và thương người Đan Lai của mình nên cố “nuốt” kiên thức, gắng học khối B để thi vào Trường ĐH Y khoa Vinh rồi trở về quê giúp bà con dân bản. Ngày nhận được tin Hoài đậu tốt nghiệp, cả bản làng vui mừng, chộn rộn hẳn lên. Họ tự hào “người Đan Lai chúng ta ở trong rừng sâu đã có cái Hoài học hết chữ (học hết THPT) ở trường huyện rồi”.

Ngày Hoài sắp đi thi ĐH thì bố bị ốm, mẹ chưa xuống phố bao giờ nên không biết đường đưa Hoài đi thi. Mẹ bán đàn gà, vay tiền khắp làng được 1 triệu đồng để Hoài ra trung tâm xã đi thi cùng các bạn. Thi xong Trường ĐH Y khoa Vinh, Hoài lại ngược dòng sông Giăng về nhà, lên nương rẫy và chờ mong kết quả. Ban đêm, Hoài đến nhà vận động các em trong bản tiếp tục ra trung tâm xã học lên THCS. Rồi Hoài hăm hở ra trung tâm xã, nơi có sóng điện thoại để xem kết quả thi. Nhưng Hoài đã khóc khi kết quả chỉ đạt 11 điểm, không đủ điểm vào hệ ĐH Trường ĐH Y khoa Vinh.

Hay tin Trường ĐH Vinh đang xét tuyển 215 thí sinh là người dân tộc thiểu số, ở huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ nên Hoài lại ra trung tâm xã làm hồ sơ xin xét tuyển. Tuy nhiên, nơi Hoài ở là huyện Con Cuông, không thuộc huyện nghèo 30a nên em không thuộc diện xét tuyển, dù em là “hạt giống” quý của bộ tộc Đan Lai, ở nơi cực kỳ khó khăn.

“Em rất buồn khi mình ở nơi vùng sâu vẫn không được nộp hồ sơ xét tuyển vào lớp dân tộc thiểu số Trường ĐH Vinh. Em đang nộp hồ sơ vào hệ CĐ Trường ĐH Y khoa Vinh nhưng cũng mong manh. Em mong được học lên lắm, để sau này còn về quê công tác, giúp người dân bản mình” - Hoài nói.



Công ty gia sư Easy-learn gồm những đội ngũ gia sư chất lượng cao bao gồm Gia sư bách khoaGia sư toángia sư tiếng anh Cam kết mang lại kết quả học tập hoàn hảo cho con em bạn Liên Hệ Mr Tú 0946.486.568 Mr Quỳnh 0902 898 383

Phát hoảng vì trò fake ảnh tục

Xấu hổ vì những fake ảnh tục
Đang lang thang trên mạng để tìm thông tin phục vụ cho bài viết của mình, tôi phát hoảng khi nhận ra một gương mặt rất quen của một người bạn thân đang làm dáng trong trang phục "eva".
Lướt xuống phần comment dưới bức ảnh, tôi càng nóng bừng mặt với những lời comment rất thô tục. Tôi thật sự không tin người bạn học chung lớp thể dục thẩm mỹ của mình lại có bức ảnh hot như vậy. Vì tôi biết cô bạn ấy rất đàng hoàng, là một nhân viên văn phòng của một Cty ở Tân Bình. Là con của một gia đình gia giáo ở ngoại tỉnh thì cô bạn không táo bạo đến nỗi đi chụp hình sex.
Phat hoang vi tro fake anh tuc
Ảnh minh họa
Khi tôi gởi đường link qua cho cô bạn, cô ấy khóc như chưa từng được khóc vì quá xấu hổ. Cô sợ ba mẹ phát hiện, sợ bạn bè, đồng nghiệp ở công ty phát hiện. Và nhất là người yêu cô, nếu phát hiện ra bức ảnh này thì tình cảm bấy lâu của họ sẽ có nguy cơ tan vỡ.
Sau khi tìm hiểu và nhìn những bộ ảnh mà cô bạn chụp khi đi chơi cùng gia đình ở Vũng Tàu, tôi mới lờ mờ phát hiện ra thực chất của vấn đề. Và tôi  quyết định tìm hiểu sâu hơn về những thú chơi phản cảm và gây nhiều hệ lụy cho người khác như thế này.
Không chỉ có mình bạn tôi, mà chị N. là giáo viên ở quận 12, TP. Hồ Chí Minh đang đối mặt với nguy cơ tan vỡ hạnh phúc vì chồng chị có bằng chứng chị đã từng... rất không đàng hoàng. Cái bằng chứng mà chồng chị N. có là một bức ảnh dạng file kỹ thuật số, trong đó là hình ảnh chị N. thời sinh viên trần truồng trong tư thế khó coi nhất.
Những chi tiết của các bộ phận nhạy cảm nhất của người phụ nữ phô bày một cách rất thô tục. Chính bức ảnh này, đã khiến cho chồng chị trở mặt lạnh lùng và đay nghiến chị với những lời lẽ hết sức thô tục.  Trong những lần cãi vả, ẩu đả  ấy, chị N. mới phát hiện ra nguyên nhân chồng bỗng dưng trở thành kẻ "vũ phu" bởi vì một bức ảnh.
Trong ảnh, đó là gương mặt của chị, thân hình của chị, dáng điệu của chị nhưng chị khẳng định, đó không phải là chị, vì chị chưa từng chụp bức ảnh nào thô tục như thế. Tất nhiên, cho dù chị phân bua thế nào, anh chồng vẫn một mực quyết rằng chị đã từng để kẻ nào đó chụp ảnh sex.
Anh ta suy luận thêm, để cho người ta chụp ảnh tục tĩu như thế thì chắc chắn chị là người dễ dãi, đã từng "mây mưa" nhiều lần  với người chụp ảnh.
Xấu hổ và đau đớn, chị N. nhất định truy tìm ra nguồn gốc bức ảnh "đồi trụy" ấy. Manh mối cuối cùng mà chị N. lần ra được là một trang web sex. Bức ảnh của chị được minh họa trong một bài viết kể về một trận "mây mưa" của tác giả với người trong bức ảnh.
Mặc dù choáng váng với bài viết đậm mùi dâm ô trên trang web này, chị N. vẫn đăng nhập vào làm thành viên với một nick name rất dễ thương để làm quen với người đăng tải bức ảnh.
Sau hàng tháng trời "giả nai" mơn trớn chat với cái nick đó, chị mới vỡ lẽ ra, đó là một tín đồ chơi ảnh fake tục. Anh ta cho biết, tình cờ vào trang blog cá nhân của "ai đó", thấy bức ảnh cô sinh viên mặc áo dài quá đẹp đã copy về máy rồi fake chơi.
Từ một bức ảnh nữ sinh viên mặc áo dài, ngồi nghiêm túc trên ghế, gã "fake sĩ" hô biến thành một cô gái không mảnh vải trên người với tư thế tục tĩu như gái mại dâm.
Mỹ nhân trong giới showbiz cũng là nạn nhân
Sau sự kiện một đường dây bán dâm cao cấp của giới showbiz Việt bị lực lượng công an phanh phui, một vài nhân vật giới ăn chơi Sài Gòn khẳng định, đó chỉ là một "con tép" nhỏ trong làng giải trí. Họ cho rằng, cứ hễ "em nào có ảnh nude tục là em đó có bán dâm".
Với họ, nude nghệ thuật là ảnh cởi truồng khoe đường cong thể hình, còn nude tục là ảnh khoe bộ phận sinh dục. Để minh họa cho điều mình nói, một doanh nghiệp chìa ra khoe một xấp ảnh nude tục của hơn 60 người đẹp trong làng giải trí. Nhìn qua bộ ảnh, dân ăn chơi sành điệu cũng phải bật ngửa vì những ca sĩ, diễn viên, MC nổi tiếng nghiêm túc, chưa từng dính scandal nào cũng có mặt trong tư thế tục nhất, dâm đãng nhất và khả ố nhất như: MC Đỗ Th.; Diễn viên điện ảnh Trương Q. A; Ca sĩ diễn viên Thùy L.; Ca sĩ nhí Xuân M.; Ca sỹ Ngọc A., Yến Tr., Vy O. Vân Tr.; Lương B. H... Tất cả đều "trần như nhộng" với những tư thế ưỡn ẹo, khoe chân dài, khoe ngực rất thô tục.
Tục tĩu nhất là hai bức ảnh của ca sĩ diễn viên Minh H. và T. Một bức bán thân của hai người, trong đó T. đứng sau lưng vòng tay ra phía trước đặt lên ngực trần lồ lộ của Minh H.. Bức thứ hai là cảnh Minh H. ngồi trên người T., cả hai không mảnh vải che thân và để lộ những bộ phận nhạy cảm cần che giấu nhất. Ai nhìn bức ảnh cũng thấy nóng ran cả mặt.
Bức ảnh này đã và đang được lan truyền ra ngoài và làm đề tài bàn tán, những lời chê bai, và cả những lời "thóa mạ" của của anfan-ti dành cho hai ca sĩ đang được mến mộ này.
Chúng tôi đem những bức ảnh ấy đến nhờ một người bạn - một chuyên gia "sốp" (photoshop) cho các điểm dịch vụ ngành ảnh. Sau khi xem xét tỉ mỉ từng đường nét trên ảnh, người bạn này tuyên bố: Đó là những những bức ảnh "fake".
Theo anh bạn, "Sốp" và "fake" đều là "môn đồ" của photoshop nhưng thuộc hai môn phái hoàn toàn khác nhau. "Sốp sĩ" dùng kỹ thuật số để phục vụ dân sinh, phục vụ xã hội kiếm tiền cơm cháo. Còn dân "fake sĩ" đa phần là những kẻ "rảnh hơi, thiếu việc, thừa cơm" và đầu óc luôn nghĩ đến những điều đen tối.

Với "fake sĩ" đó là trò quá đơn giản
Với "fake sĩ", chỉ cần có một bức chân dung kỷ niệm có đầy đủ quần áo của bất kỳ ai, chỉ trong vòng vài phút, người trong ảnh dù trong tư thế kín đáo nhất cũng sẽ bị lột trần truồng trên ảnh. Anh bạn mở vi tính rồi vào một trang diễn đàn web đồi trụy, kích dục có tên miền ở nước ngoài nhưng hàng ngàn thành viên đều là người Việt. Trang web này mở hẳn một câu lạc bộ "fake sĩ" để quy tụ "nhân tài". Điều kiện để tham gia CLB rất đơn giản: Biết sử dụng phần mềm photoshop.


Công ty gia sư Easy-learn gồm những đội ngũ gia sư chất lượng cao bao gồm Gia sư ngoại thươngGia sư toángia sư tiếng pháp Cam kết mang lại kết quả học tập hoàn hảo cho con em bạn Liên Hệ Mr Tú 0946.486.568 Mr Quỳnh 0902 898 383