Vậy thực tế chính phủ TQ đã phát triển tư tưởng Khổng giáo như thế nào trong giáo dục đại học?
Khổng Tử (551–479 trước CN) |
Theo lý giải của Gs. Marginson (2011), hệ thống tư tưởng Khổng giáo trong giáo đại học ở TQ và một số quốc gia chịu ảnh hưởng của Khổng giáo ở Châu Á (kể cả Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore, Hong Kong, Nhật, Đài Loan) được phát triển dựa trên bốn yếu tố sau:
- Chính sách quản lý và kiểm soát chặt chẽ của nhà nước thể hiện qua những điều luật, qui định chi tiết và những ưu tiên nghiên cứu chiến lược so với các quốc gia ở Tây Âu (xuất phát từ tư tưởng nhà nước thống nhất “bình thiên hạ”, cấp dưới phục tùng cấp trên).
- Tốc độ phát triển về qui mô của sinh viên và sự đóng góp học phí/ đầu tư cho giáo dục của các hộ gia đình (tức truyền thống “hiếu học” của người dân).
- Sự chọn lựa gắt gao sinh viên qua các kỳ thi tuyển sinh quốc gia (tức xuất phát từ lối thi cử lều chỏng học theo kiểu tầm chương trích cú để ra làm quan, làm “công bộc” cho dân và… kiếm tiền).
- Sự đầu tư rất lớn của nhà nước cho nghiên cứu thông qua việc mở cửa nền kinh tế và nguồn lực thu được từ học phí cũng như các khoản tài trợ của nhà nước nhằm hình thành nên các trường đại học nghiên cứu hàng đầu (tức “vua chăm lo cho con dân” thông qua tiền thuế của người dân và tài nguyên của đất nước).
Nhằm duy trì vai trò của nhà nước trong việc kiểm soát chặt chẽ các cơ sở giáo dục đại học, TQ duy trì sự lãnh đạo toàn diện của Đảng thông qua đảng ủy và hiệu trưởng. Đảng ủy theo đó đóng vai trò giống như hội đồng trường trong việc định hướng chiến lược và ra các quyết định về vấn đề nhân sự. Tuy nhiên, do tất cả các thành viên của Đảng ủy là cán bộ trong trường (internal stakeholders) nhưng lại quản trị nhà trường trong bối cảnh kinh tế thị trường cạnh tranh và toàn cầu hóa nên các trường đại học rất cần các hội đồng trường theo đúng nghĩa, tức thành phần của hội đồng trường bao gồm các chuyên gia về các lĩnh vực, đặc biệt là quản trị, tài chính, kinh doanh, và học thuật trong và ngoài trường, theo đó, số thành viên bên ngoài nhiều hơn số thành viên bên trong. Song song đó, các trường tuy được phần nào được cởi trói nhưng quyền tự do học thuật, đặc biệt đối với các ngành khoa học xã hội luôn là điều cấm kỵ trong xã hội TQ nhằm đảm bảo sự “ổn định để phát triển” theo tư tưởng của Khổng giáo chứ không phải “phát triển để ổn định” theo quan điểm của các nước phương Tây.
Tuy nhiên, chính phủ TQ đã khôn khéo trong việc học hỏi và sử dụng các hình thức quản trị tiên tiến theo hệ tự do mới (neo-liberalism) hay quản lý công mới (new public management) từ phương Tây nhằm cải cách hệ thống giáo dục đại học của quốc gia (Mok 2009) theo hướng cận thị trường (quasi-market) với sự tham gia quản lý và kiểm soát của nhà nước (state control). Theo đó, các cơ sở giáo dục đại học được trao quyền làm ăn kinh tế và mở rộng hoạt động doanh nghiệp, đồng thời chuyển từ nghiên cứu riêng lẻ đơn ngành theo mô thức 1 (mode 1) sang nghiên cứu liên kết đa ngành theo mô thức 2 (mode 2) (Gibbons et al. 1994), kết hợp với kiểm định chất lượng và hình thành cơ chế đảm bảo trách nhiệm xã hội và giải trình.
Mặc dù TQ sao chép và gián tiếp sử dụng mô hình quản lý công mới của các nước phương Tây nhưng nhà nước vẫn duy trì kiểm soát chi tiết chương trình giảng dạy, bổ nhiệm nhân sự cấp cao, kể cả định hướng nghiên cứu (Huang 2009; Newby et al. 2009; Oba 2007; Yamamoto 2007:82) với lập luận nếu nhà nước không duy trì chính sách quản lý nhà nước tập quyền thì sẽ rất dễ dẫn đến sự phân chia cát cứ và bạo động. Điều này trái ngược với mô hình giáo dục đại học Anh-Mỹ - tức các cơ sở giáo dục đại học được giao nhiều quyền tự chủ hơn trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng với sự hỗ trợ, giám sát của nhà nước nhưng phải đi đôi với trách nhiệm xã hội và giải trình.
Công ty gia sư Easy-learn gồm những đội ngũ gia sư chất lượng cao bao gồm Gia sư sư phạm và Gia sư lý và gia sư tiếng trung Cam kết mang lại kết quả học tập hoàn hảo cho con em bạn Liên Hệ Mr Tú 0946.486.568 Mr Quỳnh 0902 898 383
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét